Tuesday, September 24, 2013

Mối quan hệ Việt-Pháp đáng tin cậy qua một góc nhìn văn hóa.

/

Mối quan hệ Việt-Pháp qua một góc nhìn văn hóa

Việt Nam là một trong những nước châu Á có nhiều mối quan hệ đặc biệt lâu đời với Pháp, nhất là về mặt văn hóa. Khi người Pháp tìm hiểu văn học Việt Nam, một số lớn lúc gặp quyển  Kim Vân Kiều  đã hết sức khâm phục tài nghệ của cụ Nguyễn Du và có rất nhiều người Pháp chịu thương chịu khó dịch lại hơn 3. Giáo sư Phạm Duy Khiêm (anh ruột của nhạc sĩ Phạm Duy) là người trước tiên được vào học Trường Đại học Sư phạm đường Ulm (cùng một khóa với cố Tổng thống Pháp Georges Pompidou và cố Tổng thống Senegal Louis Senghord), đã viết rất nhiều quyển sách bằng tiếng Pháp, rất được người Pháp yêu chuộng; chúng ta chỉ nhắc lại hai quyển: “Legendes des Terres Sereines” (Huyền thoại miền Thanh Lãng) bao gồm những truyền thuyết và cổ tích Việt Nam, và quyển “La femme de Nam Xương” (Người thiếu phụ Nam Xương).

Trần Đức Thảo từng đàm đạo nhiều điều với Jean Paul Sartre, khiến cho rất nhiều lần Jean Paul Sartre phải trông Trần Đức Thảo có lý.

Sau này thầy thuốc Nguyễn Khắc Viện cũng được Hàn lâm viện Pháp tặng một giải thưởng đặc biệt vì đã cho xuất bản bằng tiếng Pháp nhiều quyển sách về lịch sử và văn hóa Việt Nam với lời văn rất đẽo gọt.

Sự kiện đó chứng tỏ nước Pháp rất trọng văn hóa của các dân tộc khác và tạo điều kiện thuận lợi để cho họ phát triển nền văn hóa đó, song song với việc tiếp nhận văn hóa Pháp trong đời sống và trong dài.

Ngược dòng thời gian vào thế kỷ thứ 16, một nhà truyền giáo gốc người Pháp (sanh tại Avignon), ông Alexandre de Rhodes, là người trước nhất viết từ điển bằng 3 thứ tiếng Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum Latinum) in tại Rome năm 1651.

Nối, các nhà xuất bản Larousse, Fasquelles, Retz mời tôi viết bài về âm nhạc Việt Nam và âm nhạc châu Á. Bách khoa Từ điển Gallimard năm đó chuẩn bị viết một chương lớn về các truyền thống âm nhạc của châu Á mà trong đó không có dự định cho Việt Nam một trang nào cả.

Nhờ đó trong giới nghiên cứu âm nhạc tôi đã có một vị trí khả quan. Năm 1989, khi Nguyễn Mạnh Tường trở lại Pháp, ông lại được nhắc tới với một sự tôn kính và khâm phục của Hiệu trưởng Trường Đại học Paris VII: “  Đã 60 năm qua, trên sơn hà Pháp này, chưa có một sinh viên Pháp hay sinh viên quốc tế nào phá được kỷ lục của Giáo sư kính mến: Hai bằng tấn sĩ nhà nước ở tuổi 22"   (dẫn theo bài viết của nhà sử học Dương Trung Quốc).

Khi người Việt sang sanh sống tại đất Pháp, cũng có một số người ngoài việc học tập người Pháp về mặt khoa học-kỹ thuật còn am tường văn hóa Pháp một cách sâu sắc.

Năm 1954, tôi theo học tại Viện nhạc học Paris (Institut de Musicologie). 000 câu thơ của tác phẩm này. Ông đã cùng Giáo sư Pierre Huard (một giáo sư y khoa nhưng lại yêu thích văn hóa) viết quyển “Những điều cần biết về Việt Nam” (Connaissances du Vietnam). Năm 1959, khi tôi yêu cầu tổ chức một trọng điểm học nhạc Đông phương, trong đó khoa dạy chánh là Âm nhạc truyền thống Việt Nam, tôi đã được các chuyên gia trong các bảo tồn viện lớn và thầy Chailley GS tại Sorbonne, sau đó Bộ Văn hóa, ủng hộ triệt để, giúp tôi thực hiện được lý tưởng đem nhạc Việt Nam và nhạc châu Á đến với sinh viên Pháp và những người tình nhạc Đông phương… Vào năm 1967, tôi lãnh chức phận Nghiên cứu sư (Maitre de Recherches), vị trí này được quyền định đoạt đề tài nghiên cứu cho mình, song song có thể chỉ đạo nghiên cứu cho sinh viên soạn luận án tiến sĩ.

Ông là Nguyễn Mạnh Tường, “lưỡng khoa Tấn sĩ” nức tiếng trong lịch sử Việt Nam và Pháp. Ngoại giả, một sinh viên Việt Nam lỗi lạc khác, trong tháng 5 và tháng 6/1932, đã bảo vệ thành công hai luận án Tấn sĩ quốc gia Pháp về Luật và văn học lúc 22 tuổi. Theo những tư liệu về Nguyễn Mạnh Tường, trong số 4 luận án tiến sĩ của ông (gồm 2 luận án chánh và 2 luận án phụ) thì đã có tới 3 đề tài về văn học, luật pháp và tầng lớp Việt Nam.

Thật kiêu hãnh vì một triết gia Pháp nức danh thế giới mà chủ nghĩa Hiện sinh của ông ảnh hưởng khá đậm nét trong giới triết học, văn học, âm nhạc, thi ca lúc bấy giờ, lại từng tranh luận tay đôi ngang hàng và bằng lòng những lý luận của Trần Đức Thảo. Điều đó cho thấy rằng, Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường tuy học văn hóa Pháp, nhưng vẫn tôn trọng văn hóa Việt, và sau này về nước lại đem những hiểu biết đó đào tạo sinh viên Việt Nam, giúp cho sinh viên Việt Nam hiểu biết thêm về văn hóa phương Tây để so sánh với văn hóa của mình.

Khi nước Pháp vinh danh khoảng 50 ngoại kiều đang sống tại Pháp, những người nổi tiếng trên thế giới mà vẫn còn giữ bản sắc văn hóa của nước mình, tôi là người Việt Nam được chọn lọc và nhờ vậy, cây đờn tranh cùng Luận án về Âm nhạc dân tộc của tôi được cả nước Pháp biết.

Bên cạnh đó, có rất nhiều người Pháp trong mọi lãnh vực đã đến Việt Nam tìm hiểu và nghiên cứu văn hóa của người Việt (hồ hết là những nhà dân tộc học) như các ông Cadiere, Haudricourt, Maspero, Cordier… Sau này, có những nhà nghiên cứu nổi danh về Việt Nam học, tiêu biểu như ông Emile Gaspardone, một đại giáo sư tại College de France về văn hóa và lịch sử Việt Nam, người đã dựng một thư mục đăng trong tạp chí Trường Viễn Đông Bác Cổ năm 1934, gồm có 154 danh sách các bài viết và sách báo đã được in ra bằng ngôn ngữ Hán-Nôm.

Trong 3 năm trời, đề tài nghiên cứu quan trọng nhứt của tôi là tiếng nói, âm nhạc, kịch nghệ truyền thống Việt Nam. Người Việt dùng tiếng Pháp một cách tinh tướng đến đỗi Hàn lâm viện Pháp phải tặng cho họ những giải thưởng. Năm 1961, ông Phạm Văn Ký đã viết cuốn tiểu thuyết bằng tiếng Pháp “Perdre la demeure” (Đánh mất ngôi nhà) và được giải thưởng của Hàn lâm viện Pháp.

Năm 1884, ông Abel des Michels là người đầu tiên dịch  Truyện Kiều  ra Pháp ngữ và in thành 3 bổn. Thầy thuốc Yersin là người đã xây dựng nên tỉnh thành Đà Lạt mơ mộng nơi cao nguyên Trung phần Việt Nam, là người có công trong việc hình thành nét đẹp của thị thành này.

Ông chủ biên Roland Manuel mời tôi đến và nói: “Tôi có được may mắn nghe ông bảo vệ luận án tiến sĩ về âm nhạc Việt Nam, tôi thấy rằng truyền thống Việt Nam rất sâu sắc và khác hẳn văn hóa Trung Quốc.

Đến năm 1915, một nhà bút pháp tên Leon Masse, một sĩ quan hải quân rất mê  Truyện Kiều  đã dịch quờ truyện ra tiếng Pháp, lấy bút hiệu bằng tiếng Việt là Thu Giang. Về sau quyển tự điển đã được các nhà tiếng nói học, sử học dùng để tham khảo cho các công trình nghiên cứu về chữ Quốc ngữ tại Việt Nam. Giáo sư Trần Văn Khê Nước Pháp là một quốc gia châu Âu có nền văn hóa khôn xiết phong phú.

Một người Việt nữa cũng từng học Trường Đại học Sư bất hợp pháp là triết nhân Trần Đức Thảo (cùng một khóa với triết gia rất nức tiếng của phái Hiện sinh là Jean Paul Sartre). Người Việt Nam nói riêng và các dân tộc khác nói chung, trong mối quan hệ với nước Pháp, chẳng những tiếp thụ được văn hóa Pháp, thành tài trên đất Pháp mà trái lại còn tạo điều kiện cho nước Pháp có được một nền văn hóa đa dạng muôn hình vạn sắc, đặc biệt là mối liên tưởng sâu sắc giữa hai giang sơn phương Tây và phương Đông như Pháp với Việt Nam.

Nhà nghiên cứu Maurice Durand đã sưu tầm rất nhiều dân ca Việt Nam. Lịch sử ghi nhận ông là người đã hệ thống hóa cách viết của chữ Quốc ngữ, đã giúp cho dân tộc Việt Nam phổ quát được rộng rãi những trước tác được viết bằng ngôn ngữ Hán-Nôm.

Người Pháp rất hãnh diện có được rất nhiều kiều dân không phải sanh tại nước Pháp lại được nổi tiếng từ nước Pháp, đem vinh hạnh chẳng những cho Pháp mà cho cả dân tộc của họ. Đây là cuốn sách giao hội thảy những phong tục tập quán của người Việt Nam từ cách ăn mặc, làm việc, giải trí, tín ngưỡng… để những ai muốn tìm hiểu văn hóa và con người Việt Nam có thể nắm qua quýt.

Riêng tôi, bắt đầu sang Pháp năm 1949, theo học Luật Quốc tế tại Viện Khoa học Chánh trị Paris (Institut d’etudes Politiques) và năm 1951 ra trường với bằng cấp về Giao dịch Quốc tế (Relations Internationales). Năm 1926, một viên chức của Tòa Khâm sứ Pháp tên là Rene Crayssac, và năm 1943 một sĩ quan hải quân khác tên là Marcel Robbe cũng dịch  Truyện Kiều  sang tiếng Pháp… Điều này chứng tỏ trong tất tật những người Âu Mỹ có dịp tiếp cận với nền văn học Việt Nam, đa phần chỉ có người Pháp là đi sâu vào lãnh vực này, họ tìm hiểu, thích thú và thưởng thức cái đẹp trong đó.

Dù rằng Chánh phủ Pháp biết tôi đặt trọng điểm nghiên cứu, giảng dạy về Âm nhạc Việt Nam nhưng đã tặng cho tôi “Chương Mỹ Bội tinh” cấp Sĩ quan và năm 1993, khi Tổng thống Francois Mitterand trong chuyến công du đến Việt Nam có mời tôi theo đoàn tùy tùng của ngài.

Tháng 6/1958, tôi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Đại học Văn khoa Pháp (môn Âm nhạc học) với luận án chánh: “Âm nhạc truyền thống Việt Nam” và luận án phụ: “Khổng Tử và âm nhạc”. Trong lúc này tôi lại được bổ dụng điều khiển một chương trình nghiên cứu đặc biệt mang tên “RCP Việt Nam” (Recherche Cooperative sur Programm Việt Nam) với nhiều phương tiện, kinh phí để tôi mang về Việt Nam cộng tác với Viện nghiên cứu Âm nhạc, Viện trưởng là cố GS Lưu Hữu Phước.

Sơn hà này còn đón tiếp nhiều luồng văn hóa trên khắp năm châu, tạo thành một vẻ đẹp văn hóa đa dạng, đầy sinh khí. Tôi đề nghị xén bớt mỗi truyền thống của châu Á 1 trang và mót được 9 trang, chẳng hay ông có chấp thuận viết 1 bài về truyền thống Việt Nam với số trang ấy không, để cho Việt Nam có mặt với các nước khác?” Tôi ưng ý và bài đó là bài trước hết được đăng trong một bách khoa tự điển âm nhạc danh tiếng của nước Pháp.

No comments:

Post a Comment